Trong sự dịch chuyển không cùng của vũ trụ, người ta chia thời gian ra từng chặng cho dễ nhớ: 1 ngày, 1 năm, 1 thế kỷ.…Một năm trôi đi, thời khắc nằm giữa ngày 1-1 và 31-12 gọi là giao thừa, nơi thời gian dường như dừng lại, ở đó, theo thói quen, người ta ngoái nhìn một năm cũ vừa đi qua với bao buồn vui, rồi đón đợi một năm mới đầy bí ẩn và kỳ vọng đang từ từ tới.
“Bất tri hà xứ thị tha hương”
Đó là câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch - nhà thơ lớn của Trung Quốc đời Đường - Đãn sử chủ nhân năng túy khách/ Bất tri hà xứ thị tha hương (bạn đã say bởi rượu của chủ nhà rồi thì không còn coi đó là nơi xa lạ nữa).
Cái nôi mà nền văn minh sông Đồng Nai tượng hình là một miền văn hóa cổ xưa với nhiều tầng di chỉ có niên đại từ nhiều thiên niên kỷ trước công nguyên. Nó trở thành một phần lãnh thổ của Việt Nam không phải do sự cộng vào theo kiểu số học một vùng văn hóa khu biệt mà chính là sự nhân loang ra từ nền văn minh sông Hồng trong quá trình người Việt thực hiện công cuộc Nam tiến. Quá trình ấy diễn ra trong nhiều thế kỷ dưới sự tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trong tổng thể một nước Việt Nam thống nhất. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khởi từ 1859, thực dân Pháp rồi kế đó là đế quốc Mỹ đều tập trung bình định Đông Nam bộ và chọn Sài Gòn làm thủ phủ, nơi phát ra và chỉ đạo thực hiện các chủ trương chiến lược và kế hoạch chiến tranh trên toàn chiến trường miền Nam và Đông Dương. Về phía kháng chiến, Đông Nam bộ là địa bàn có khả năng thể hiện sự vận dụng đầy đủ đường lối quân sự, đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến tranh nhân dân; địa bàn thể hiện một cách trực tiếp truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam-Campuchia. Nó là miền đất hứa của những người làm công tác nghiên cứu sử học.
Sau khi tốt nghiệp khoa lịch sử thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa chính quy năm 1978, tôi nhập ngũ, về làm giảng viên tại Trường Sĩ quan Chính trị. Đến cuối năm 1981, ngành lịch sử quân sự thành lập trong toàn quân, tôi được điều về công tác tại Phòng Lịch sử quân sự (ra đời năm 1980, nay là Phòng Khoa học quân sự) Quân khu 7. Tại đây tôi được phân công nghiên cứu lịch sử thời chống Pháp, làm thư ký riêng cho Thiếu tướng Lương Văn Nho, lần lượt giữ trách nhiệm Trưởng ban Tổng kết-lịch sử, Phó trưởng phòng rồi Trưởng phòng Khoa học quân sự quân khu. Tôi đã cố gắng thực hiện hoàn thành nhiệm vụ giúp việc, tham mưu, quản lý khoa học và trực tiếp nghiên cứu: tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, viết hồi ký tướng lĩnh, biên soạn lịch sử chiến tranh, lịch sử tổ chức quân sự và lịch sử chuyên đề (với 70 cuốn sách đã xuất bản, hoặc viết riêng, hoặc chủ biên, hoặc viết chung với nhiều người khác); rồi góp phần xây dựng ngành khoa học quân sự, tham gia các hoạt động sử học trên địa bàn (với trách nhiệm Ủy viên ban chấp hành nhiều nhiệm kỳ và Phó chủ tịch một nhiệm kỳ Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh).
Nếu tính từ năm 1980, thực ra là còn xa hơn thế, ngành lịch sử quân sự ở miền Đông Nam bộ đã đi một chặng dài 35 năm, quãng thời gian đủ để một đơn vị khoa học hình thành diện mạo riêng mình, đủ để ai từng gắn bó với đơn vị đủ ngần ấy năm bị cái diện mạo ấy đồng hóa. Và thành công hay thất bại, ưu điểm hay khuyết điểm, hạnh phúc hay đau buồn của bạn chính là của đơn vị mà bạn là hiện thân, như người ta thường nói về mối tương quan cái riêng cái chung trong triết học Marx. Và như thế, tôi đã bị miền Đông Nam bộ “lẫm” vào người, bị “say” rồi, “bất tri hà xứ thị tha hương”.
Đi tìm đặc điểm lực lượng vũ trang miền Đông
35 năm đi cùng ngành lịch sử quân sự ở miền Đông Nam bộ, mỗi tên đất, tên người, sự kiện của miền Đông thấm dần vào máu tôi, hiện hữu như một loại tế bào, một bộ phận cấu thành cơ thể. Mỗi lần ngồi trước trang giấy, tôi luôn đối diện với một câu hỏi lớn: đặc điểm của lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ là gì? Những dòng mình sắp viết ra có thể biểu tả được đặc điểm ấy không?
Từ thuở “nóp với giáo mang ngang vai”, những thanh niên nông dân vốn quen tay cày tay cuốc, những công nhân ở các đồn điền cao su, những nông phu làm nghề than củi, những học sinh trí thức, công chức Sài Gòn ... đã “lên đàng”, trở thành chiến sĩ vệ quốc với lời thề “da ngựa bọc thây” nơi chiến địa. Họ bước vào cuộc chiến, trong sáng và hồn nhiên như cây cỏ. Trong cuộc chiến ấy, lòng tận trung, khí phách bất khuất, ý chí tự cường và tinh thần đoàn kết sáng tạo... như từng hạt phù sa, ngày mỗi ngày bồi đắp lên cánh đồng phẩm cách của họ. Cánh đồng ấy xanh tươi và thăng hoa trên vùng đất lưu vực các con sông Đồng Nai, Sài Gòn, Sông Bé, Vàm Cỏ; nơi những lưu dân nước Việt định cư từ những ngày cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, hiền lành khoét rừng vớt nước làm ăn, rèn giũa cái ý chí khảng khái và năng động trước mọi ngáng trở của hoàn cảnh, bộc trực và hào hiệp, đùm bọc nhau, “trọng nghĩa khinh tài”. Phải chăng quá trình ấy tinh kết thành những nét riêng của lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ? Điều đó xâm nhập vào tiềm thức của tôi, ngấm ngầm và bền bỉ, như một thứ oxy hóa trong dung môi thời gian.
Năm 1995, để kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Quân khu 7 (10.12.1945 - 10.12.1995), tôi được phân công làm chủ biên cuốn “Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7”. Khi đặt bút dự thảo những dòng kết luận của cuốn sách, dưới tác động của quá trình “oxy hóa” ấy, tôi đã nhớ lại và chép ra các ý kiến kết luận của hàng trăm nhân chứng lịch sử vốn là những cán bộ lãnh đạo chỉ huy qua các thời kỳ kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc ở miền Đông Nam bộ. Bản thảo chương kết luận được đánh máy gửi đi xin ý kiến các cán bộ lãnh đạo chỉ huy, các cơ quan nghiên cứu và nhận được hàng trăm ý kiến đóng góp sửa chữa, trong đó có những ý kiến rất quan trọng của Cục Chính trị quân khu. Trên cơ sở ấy, Đảng ủy quân khu đã thông qua bản thảo cuối cùng. Truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 7 được ghi trang trọng trong cuốn sách: Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng!
Vâng, đó là đặc điểm và trở thành truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ. Truyền thống, như Marx nói, là sự lặp lại mang tính quy luật những hành vi tích cực của mỗi cộng đồng người. Truyền thống của lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ, của Quân đội nhân dân Việt Nam có trong hành trang mỗi chúng ta như một niềm tự hào, một thứ năng lượng tinh thần luôn bốc cháy. Không chỉ thế, nó hiện hữu trong tâm thức những chiếu sĩ miền Đông như một mệnh lệnh đòi hỏi sự nối tiếp. Bởi vì, trong dòng chảy vô cùng của thời gian, mỗi người đi sau là một bộ phận cấu thành truyền thống.
Lịch sử và người viết lịch sử
Tri thức lịch sử là một trong những thành tựu quan trọng nhất của nền văn hóa mà loài người trong cuộc đấu tranh sinh tồn đã đạt được. Với thiên chức tái tạo quá khứ, sử học tìm ra mối liên hệ đa chiều giữa các sự kiện, vạch ra quy hướng vận động của sự vật và hiện tượng một cách khách quan. Chiến tranh qua đi, lịch sử của nó chỉ còn lại thông qua tư duy hồi cố của một nhà nước, một tập thể hay cá nhân người viết sử. Trong số những người nghiên cứu lịch sử quân sự ở lứa tuổi của tôi đổ lên, mỗi người đều có một ký ức trực tiếp về chiến tranh, nhưng không phải ai cũng có độ khúc xạ trí nhớ như nhau, đều sử dụng những thể thức nghiên cứu như nhau, và do đó cũng nhận thức như nhau về cuộc chiến tranh ấy. Tái tạo quá khứ là một công việc khó khăn, nhiều khi nguy hiểm.
Lịch sử về lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở miền Đông Nam bộ trong mấy thế kỷ qua dường như chưa được hiểu thật đầy đủ và chính xác. Mức độ khốc liệt của chiến tranh, hết chống Pháp rồi chống Mỹ, rồi biên giới Tây Nam và nghĩa vụ quốc tế, sự ít ỏi và thiếu độ tin cậy trong nguồn sử liệu thành văn hiện có, sự mất dần đi tư liệu trí nhớ của nhân chứng lịch sử cùng với lối viết sử giáo điều, thiếu tri thức lý luận, thiếu tinh thần khách quan khoa học trong một vài công trình sử học về chiến tranh cách mạng ở địa phương đã góp phần đẩy xa khoảng cách nhận thức về các cuộc chiến tranh với hiện thực các cuộc chiến tranh ấy. Mà không chỉ lịch sử chiến tranh. Bởi vì khi cả nước tiến hành chiến tranh, thì nhân dân ta đã không chỉ tiến hành chiến tranh, và bản thân cuộc chiến tranh không tồn tại như một hiện tượng lịch sử riêng rẽ.
Lỗi ấy trước hết thuộc về người viết sử. Dường như chúng ta còn thiếu một đội ngũ các nhà khoa học ngang tầm nhiệm vụ, một đội ngũ sĩ quan là trí thức về sử học quân sự theo đúng nghĩa của cụm từ này. Đặc thù của công tác sử học quân sự với những yêu cầu khe khắt về phẩm chất, về học lực, về tri thức thực tiễn và sau cùng là tổ chức biên chế đã khép hẹp cánh cửa tuyển chọn và phát triển cán bộ nghiên cứu sử học quân sự. Ngoài mặt trận, người lính chỉ có thể đánh thắng khi trước đó được trang bị đầy đủ những hiểu biết về cách đánh. Nhưng trong căn phòng sử học, chúng ta lại bỡ ngỡ với những phương pháp mặc nhiên của khoa học lịch sử như phương pháp logic, phương pháp lịch sử, rồi các phương pháp hình loại học, hệ thống, so sánh, đồng đại lịch đại, nghiên cứu vùng, phân tích định lượng; bỡ ngỡ với những thành tựu cập nhật của ngành sử học Mác xít ở trong nước, ở khu vực và trên thế giới. Trong khi, những qui thức viết sử hiện đại đang ngày mỗi ngày chuyển động không ngừng trong quá trình mở rộng chính nó.
Muốn có sản phẩm khoa học lịch sử đúng và hay cần cả một hệ thống giải pháp, nhưng trước hết là giải pháp con người, người viết ra lịch sử. Tư duy khoa học là lao động của từng cá nhân. Một nền sử học quân sự phát triển phải bao gồm những cá nhân có phẩm chất tốt và năng lực chuyên môn giỏi. Trong bất cứ một thời đại nào và bất cứ ở đâu, người viết sử cũng cần phải có tâm, có tài, có hoài bão khoa học và tinh thần dấn thân. Đó là yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất.
Lại một giao thừa nữa! Giao thừa, nhưng những gì chúng ta từng có từ năm ngoái và những năm trước nữa, không trôi đi như nước chảy về đông trong câu thơ của Lý Bạch (Cổ lai vạn sự đông lưu thủy), mà trôi về tương lai. Quá khứ luôn hiện hữu ở tương lai. Sau giao thừa đã là tương lai rồi. Và đó là lịch sử!
Đại tá PGS - TS HỒ SƠN ĐÀI