
Ngay sau khi nhận được bức thư của ông Vượng, Quân chủng PK-KQ đã phối hợp với Đoàn bay 919 (nay là Đoàn bay của hãng Hàng không Việt Nam) cử một tổ công tác đi vào A Lưới tìm kiếm và xác minh. Nhờ sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, đặc biệt của gia đình ông Nguyễn Xuân Toàn, tổ công tác đã bước đầu tìm được một số mảnh vỡ của máy bay, một phần nào hài cốt của tổ bay do đồng bào địa phương chôn cất, sau đấy tổ chức đưa các anh về đúng vào dịp kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27/7/2005.
“Tôi xin đốt một nén nhang thơm dâng vọng về nơi an nghỉ của đồng đội”, khi biết tin đã tìm thấy phần nào thi thể của đồng đội, Trung tá CCB Trần Hữu Thọ (một trong những phi công trực tiếp tham gia các tổ bay cảm tử phục vụ cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968) đã nói.
50 năm trôi qua, ông Thọ vẫn day dứt vì các đồng đội đã ngã xuống mà chưa được tìm thấy và đưa về với đất mẹ. Ông bùi ngùi nhắc lại chuyện 50 năm trước:
Tháng 2 năm 1968, Quân chủng PK-KQ giao nhiệm vụ tuyệt mật cho Trung đoàn Không quân vận tải 919: dùng máy bay IL14 ném bom bắn phá đồn Mang Cá & thả dù tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men… xuống khu vực thung lũng Tam Giang thuộc vùng núi Phước Tích, phía tây Huế. Chính uỷ Binh chủng Không quân Phan Khắc Hy và Tư lệnh Binh chủng Nguyễn Văn Tiên đã trực tiếp đến Đoàn bay triển khai và động viên các tổ lái, các bộ phận đảm bảo mặt đất…
Đến cuối năm 1967, Trung đoàn 919 chỉ có một Đại đội IL14 gồm 14 chiếc, trừ 1 chiếc dùng làm chuyên cơ, số còn lại được cải tiến để phục vụ tác chiến, từ một chức năng vận tải thành hai chức năng: vận tải - ném bom. Bộ phận kỹ thuật của Trung đoàn, trong đó có đồng chí Nguyễn Tường Long (sau này được tuyên dương Anh hùng LLVTND) đã cải tiến lắp thêm giá treo bom, rốc két, hệ thống thả đạn cối… Đến trước ngày mở chiến dịch, mới cải tiến xong 3 chiếc để làm nhiệm vụ ném bom.
Đơn vị chọn ra 6 tổ lái, mỗi tổ có 5 người gồm: lái chính, lái phụ, dẫn đường, cơ giới, thông tin. Vì đây là những chuyến bay rất nguy hiểm nên hạn chế tối đa các thành phần tổ bay; riêng các tổ bay làm nhiệm vụ thả dù thì biên chế thêm 2 đồng chí bên đơn vị dù.
Đợt một - đêm ngày 07/02/1968:
16 giờ, các tổ bay được lệnh cất cánh. Chính uỷ Binh chủng Không quân Phan Khắc Hy thay mặt Quân chủng PK-KQ xuống động viên và tiễn các tổ bay ra tận máy bay.
Tốp đầu 3 chiếc bay vào ném bom đồn Mang Cá (Huế) sau đó 10 phút, tốp thứ hai cũng gồm 3 chiếc cất cánh bay vào Phước Tích thả dù tiếp viện vũ khí, chất nổ. Mỗi tốp bay theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau 5 phút để dễ dàng cơ động và hỗ trợ nhau. Vì thời tiết quá xấu, lại liên tục phải tránh máy bay địch và các loại hỏa lực của địch bắn lên từ mặt đất nên sau khi quan sát mục tiêu, không thể xác định được vị trí chuẩn, tổ anh Trung thả hàng lệch mục tiêu 20 km (sau một thời gian Quân giải phóng cũng đã tìm thấy hàng tiếp viện), tổ anh Hoàng Liên bị trúng đạn, cạn xăng phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Thọ Xuân, Thanh Hóa. Các tổ khác trở về an toàn; riêng tổ anh Kế, Mẫn, Châu, Minh, Tê và 2 đồng chí thả dù đã ra đi mãi mãi…
Trận đầu chưa giành thắng lợi, lại bị tổn thất một tổ bay, nhưng không ai tỏ ra nao núng. Xuất phát từ thực tế của chuyến bay đêm 7/2 và ý kiến của anh em, anh Bang đề nghị từ trận thứ hai, khi vào đến Huế, nếu không thấy mục tiêu chính là đồn Mang Cá thì căn cứ vào tình huống tại chỗ, xin cho phép oanh tạc hai mục tiêu phụ: căn cứ Tà Cơn và cảng Cửa Việt.
Đợt hai - đêm ngày 08/02/1968:
Do một máy bay bị nạn không trở về, một máy bay bị hỏng phải hạ cánh xuống sân bay Thọ Xuân, nên chỉ còn 4 chiếc máy bay xuất kích, chia làm 2 tốp: 2 máy bay ném bom và 2 máy bay thả dù.
Đợt ba – đêm ngày 10/02/1968:
Đội hình xuất kích làm nhiệm vụ vẫn gồm 4 máy bay chia làm 2 tốp như ngày 08/02/1968. Các tổ bay ra đi với tinh thần cảm tử, quyết tâm cao độ. Vào tới khu vực tác chiến, anh em không sợ nguy hiểm, quần đảo sục sạo bằng mọi giá tìm mục tiêu. Nhưng yếu tố bất ngờ không còn, địch tăng cường hỏa lực mặt đất và khống chế trên không; đặc biệt, thời tiết quá xấu đã gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện nhiệm vụ.
Đêm đó, tổ bay anh Chung, anh Nùng, anh Hồi, anh Phú, anh Thường và 2 đồng chí thả dù đã không trở về.
Đợt bốn – đêm ngày 12/02/1968:
Đợt này chỉ còn lại 3 máy bay xuất kích: 2 máy bay làm nhiệm vụ ném bom, một máy bay làm nhiệm vụ thả dù.
Nhưng trong đêm đó, chỉ có tổ anh Trung trở về, còn 2 tổ bay ném bom là tổ của anh Bang và anh Ba đã hy sinh.
Chỉ một tuần ngắn ngủi tháng 2/1968, lực lượng bay của Đại đội IL14 bị thiệt hại nghiêm trọng: bốn tổ bay và các đồng chí làm nhiệm vụ thả dù, những người lính ưu tú nhất đã anh dũng hy sinh.
Ông Thọ trầm giọng: “Các anh ra đi ở lứa tuổi 25 – 30 và sống mãi mãi với tuổi xuân đấy. Tấm gương về lòng dũng cảm, chí kiên cường của các anh luôn luôn ngời sáng để chúng tôi trân trọng noi theo”.
Sau này ông Trần Hữu Thọ được học chuyển loại máy bay chở khách Tu134, ông đã cùng các tổ bay được vinh dự phục vụ đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và các đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước đi công tác trong và ngoài nước. Hiện nay ông nghỉ hưu, về sống tại quận 12. Ông luôn day dứt vì vẫn chưa tìm được các đồng đội hy sinh trong những chuyến bay cảm tử Xuân Mậu Thân 1968.
Nguyễn Việt Cường