
Bìa cuốn sách "Lời thỉnh cầu từ đất".
Trong những tác phẩm của ông, chúng ta có thể thấy rõ sự đan xen giữa những cảm xúc riêng tư và những suy nghĩ chung về cuộc sống. Ông khéo léo diễn tả những trải nghiệm cá nhân của mình bằng cách sử dụng ngôn từ đơn giản, gần gũi với đời sống hàng ngày.
“Thơ trước hết là cuộc đời...”, từ câu chuyện bất ngờ về sự ứng nghiệm trong tác phẩm “Hồi sinh và bất tử” của tác giả Phan Đình Tiến, Nguyễn Tiến Nên nảy ra ý nghĩ mới. Ông kể chuyện bằng thơ về những suy nghĩ, chất vấn, trăn trở: “neo vào trái tim vô số dấu hỏi/kết nối hiện hữu hư vô/anh nguyện cầu/gửi gắm ý tưởng/có sự linh ứng nào chăng/hai vật thể bất ngờ xuất hiện/cây lá ngẩn ngơ/bàng hoàng người chứng kiến/nguồn sống đẫm sương đêm/hotel năm sao lòng đất/hơi thở ướp men thế kỷ/hai ống xương hóa thạch thì thầm: nỗi đau lòng mẹ/bón chăm “khát vọng”/nâng niu mầm đời/phát sóng tầng tầng âm vực/những nụ hoa vừa nhú/rung rinh/biết mình mọc từ đâu.../” (Lời thỉnh cầu từ đất).
Lần gặp đầu tiên tại lớp BDVVND-K16, tác giả gặp cô bạn Nghiêm Vũ Thu Loan. Ông viết ngay bài thơ “Bài học từ em”: “Trong hàng trăm đôi tay/cảm xúc vào trang giấy/tôi thấy một đôi tay nhúng mùa đông/háo hức từng phím chữ/Đi qua hai mươi bốn mùa xuân/phóng sinh đêm dài nội cảm/“Giấc mơ thiên đường” em nuôi khao khát/“Sáng hơn mặt trời” chút hy vọng mong manh/Như loài nhạn giữa tố giông/em víu mình vào điều mong manh ấy/công sinh đôi cánh chân trời/vươn tới muôn vì sao...”
Trên mảnh đất quê hương của tác giả, Đá Nhảy nằm trong vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong những bãi biển với trùng điệp dãy núi đá bị nước biển bào mòn theo năm tháng nhô ra mặt biển với đủ mọi hình dáng phong phú, bắt mắt, xứng đáng là một tuyệt tác điêu khắc kỳ vĩ của tự nhiên. Nguyễn Tất Niên sử dụng tài năng của mình để miêu tả Đá Nhảy thành một bức tranh muôn màu qua bài thơ “ Bức tranh chiều Đá Nhảy”. “Ai gom nắng sau cánh rừng/trang điểm đôi má chiều bừng đỏ/tôi với đá cứ dùng dằng lần lữa/biển Lý Hòa rờ rỡ trước mắt tôi/ ngọn nồm về se sẽ vuốt ve/dây muống biển mon men tình tự/triều dìu dặt điệu “van” êm nhẹ/đá mộng du/ hào phóng/phăm phăm/bao lứa đôi vào độ tròn trăng/vùi nụ hôn ngọt ngào trong hoa sóng/đàn nhạn si tình say giỡn bóng/Đá Nhảy chiều trần thế hay tiên/ân ái cùng em dẫu bấy nhiêu/thêm mê đắm những/ thăng trầm/mòi mặn/xin gửi hồn tôi/vào bến bờ/cánh chim/cỏ cây/gió nắng/bức tranh muôn đời/đằm thắm tình em”. Danh thắng Đá Nhảy từng đi vào thơ của nhiều thi nhân bởi nơi đây vừa có vẻ kì vĩ của đá, núi, vừa có nét quyến rũ của biển cả mênh mông. Qua điệu thơ của tác giả, những câu mở đầu bộc lộ rõ thần thái, hồn vía, cảnh vật như thực của danh thắng Đá Nhảy.
Nguyễn Tiến Nên là nhà thơ đa cảm, yêu thương và viết những tứ thơ giàu lòng nhân ái từ trải nghiệm và suy tư: “hạnh phúc/như khuông nhạc/chưa ký nốt/những ngày chênh chao/thời gian/em luộc/lại/mình/anh gặp chuyện không may/(có thể là dịp tốt)/em biết trở về/kéo anh ra khỏi cơn thập tử/anh không thể cài then lòng mãi mãi/khi màu hồng trong em/tái sinh”. (Tái sinh 2). Bài thơ kín đáo bày tỏ cảm xúc biết ơn từ “em” – nhân vật trữ tình và kết cấu tứ thơ khá bất ngờ, vì anh gặp chuyện không may thì mới hiểu thêm về em – một kiểu tái sinh hạnh phúc.
Ký ức hiện về trong thơ ông là những “hoài niệm không tuổi”, những thi ảnh xuất hiện trong bài thơ “Vùng ký ức” như những thước phim tua nhanh, bỏ qua trình tự; từ chuyện các trò chơi trẻ con, đến chuyện mùa màng, chuyện hương bưởi… . Tất cả có trẻ thơ, có trưởng thành, có bóng mẹ… đó là những rung động, say mê: “thỏa chí với cung trời/tôi trở về lặn vào vùng ký ức/dấu tích mùa màn ve vuốt thịt da/hoài niệm bừng bừng sinh nở/trò chơi tuổi thơ khéo tìm tâm điểm/mỗi bận xung phong cả lô cốt dậy trời/bắt gặp ổ trứng gà như nhà có tết/gặp nụ hôn súng chuối đã lên nòng/trận đánh tạm ngưng/đêm giã biệt/tôi mang theo/hương bưởi/hành trang một thời/quấn quýt rạ rơm/bóng mẹ tảo tần/cây bao lần đổi lá/hoài niệm không tuổi”.
Cảm xúc thơ của ông nhẹ nhàng mà lắng đọng, được viết ra bằng cảm nhận trực tiếp trong những chuyến đi xa: “Trên đồng tỏi Lý Sơn/ai đã trồng những hàng cây khác giống/người nông dân rời yên ngựa/mười ngón tay nhảy nhót điệu đà/những hàng cây xoè ô trên ruộng/m thanh mùa màng xôn xao trong mắt lão nông/rì rào quanh những ngôi mộ gió!” (m thanh mùa màng). Câu thơ “Người nông dân rời yên ngựa” diễn đạt giản dị mà ý nghĩa sâu xa.
Bài thơ “Vịn” thời @ được viết với kết cấu chặt chẽ ở 6 khổ thơ đầu: “Tôi vịn đêm mẹ thức…/tôi vịn dáng cánh buồm…/vịn vào tôi…/vịn vào em…/tôi vịn ngày hạ cháy…/tôi vịn từng chiều đông…”; mỗi khổ thơ gói trọn một niềm tin xác tín vào các điểm tựa từ mẹ, từ em, từ quê hương…: “Biển sông vịn vào núi/ôm trọn những mạch nguồn/tôi vịn chữ @/ đời kết nối muôn phương” rồi đột ngột chuyển mạch vào hai câu kết: “Vịn lấy những chiều quê/thấy đời mình xuống chậm”. Câu thơ quen thuộc của Phùng Quán “Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy” như đóng đinh vào thơ ca Việt về lòng tin tuyệt đối vào thơ; và nhà thơ Nguyễn Tiến Nên đã sử dụng động từ “vịn” theo lối riêng của mình, bài thơ đã lấy ra điểm bất ngờ từ cái nhìn riêng: “Vịn lấy những chiều quê/thấy đời mình xuống chậm”. Vịn lấy những chiều quê bởi “Mùi quê” ám vào tâm hồn, đi không đứt, níu lấy mà hít hà: “Mùi ngô lúa giao hoan trong gió sớm/mùi rạ rơm áo mới nắng chiều/làn khói cha ôm ngôi làng ve vuốt/hoa lá khoe hàng khiêu khích bướm ong…/tôi nhận ra mùi quê nao nức/trong huyết quản mình” (Mùi quê).
Nhà thơ tự tình chân thật, hồn nhiên trong bài thơ “Tin”: “thế kỷ trước/anh đâu dám mơ làm chủ một phần mềm/ngu ngơ trước chat game/dọc ngang ngoài phố” – người đi qua hai thế kỷ không giấu giếm, chân thật đến tận cùng với câu chữ, đam mê cùng thơ, trẻ trung cùng thơ và vững tin vào khát vọng sẽ thành thơ: “tuổi cổ lai hy/trở thành chủ nhân bàn phím/những destop laptop/oshin tận tụy/vẫn không dễ dàng có một câu thơ/như ý/nhưng anh tin khi hóa thành loài nhạn trắng/biển sẽ hát cùng anh”. Khao khát, say mê cùng thơ, nhà thơ vẫn ao ước: “tôi có thể đo chiều sâu của đêm/bằng ca từ mỹ cảm/đếm sợi nắng ngày/bằng chuỗi ký tự trong thơ/có thể lường đong sông biển/bằng trăng sao cường kiệt con triều/để kiểm soát cánh rừng/tôi đành hỏi lưỡi hái phù thủy/và tự vấn ca từ trăng sao ký tự.../đều bất lực chăng?/nhưng tôi tin khi ngâm thơ cùng nắng mai/sẽ trả lời tôi tất cả. (Có thể và không thể). Niềm đam mê cùng văn chương, hăm hở viết, ông luôn ý thức làm mới chính mình trong mỗi bài thơ. Ông giãi bày: “có đôi cánh rồi/tôi phải học/cách bay/cách hót/bay theo đàn/hót tiếng/ đồng loài/và giọng/của/riêng tôi” (Mọc cánh). Thi nhân mong ước: giá mình có đôi cánh, và rồi chợt tĩnh tâm để thức tỉnh dù có bay theo đàn thì cũng phải là giọng của riêng tôi - đây là cá tính, là bản lĩnh và cũng là cái nhìn riêng của nhà văn.
Trong thơ có nhiều từ láy, từ ghép, đảo từ khá lạ: mon men - “dây muống biển mon men tình tự”, “mòi mặn” (Bức tranh chiều Đá Nhảy); ngưỡng ái - “chỉ muốn dành con ngưỡng ái” (Ngọn gió lành); ướp men - “hơi thở ướp men thế kỷ” (Lời thỉnh cầu từ đất); “góc lớp lùi thùi” (Những hoài niệm không tên); ngào thơ - “nhưng tôi tin khi ngâm thơ cùng nắng mai” (Có thể & không thể)… Mỗi tác giả khi viết không chỉ học ngôn ngữ của dân tộc mà còn phát triển ra một ngôn ngữ sáng tạo độc đáo, việc này được thừa nhận hay không phụ thuộc vào năng lực của tác giả và sự tiếp nhận từ độc giả.
Tác giả Nguyễn Tiến Nên là nhà thơ tinh tế, sắc bén và có khả năng khác biệt ở độ tuổi hiện tại. Văn chương luôn mới mẻ và là điểm tựa tâm hồn cho con người vượt qua bão giông. Với "Tái sinh", anh chứng minh được khả năng của mình. “Thơ là tự truyện của khát vọng” - “Người xưa dạy dùng người như dùng gỗ/theo lời cổ nhân/phải lũa cây bằng mắt/nhìn dó biết có trầm/sau va đập thiên nhiên/đục khoét loài sâu kiến/dó biết dồn sinh lực/nuôi dưỡng bào thai/khi miếng trầm được tạo/tự nó biết hết mình/phân thân tận tụy/vì cõi nhân sinh” (Biết).
Tập thơ này không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật mà còn là một bức tranh về con người và cuộc sống. Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những giá trị văn hóa và triết lý quan trọng, mang lại cho độc giả nhiều cảm hứng và suy ngẫm.