
Thiếu tướng Trần Ngọc Thổ.
Tháng 1-1969, đồng chí được cử đi học tại Trường Sĩ quan Đặc công. Hoàn thành khóa học, tháng 4-1969, đồng chí được bổ nhiệm Đại đội trưởng Đại đội đặc công (C25) thuộc Trung đoàn 88, Sư đoàn 9. Cũng trong năm 1969, đồng chí đã chỉ huy đơn vị tham gia phá ấp chiến lược Vườn Điều (Tây Ninh), tiêu diệt cứ điểm Gò Nổi giành thắng lợi lớn.
Tháng 9-1969, Tiểu đoàn đặc công 10, Trung đoàn 88 được thành lập, đồng chí Trần Ngọc Thổ đảm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn phó. Tháng 3-1970, Tiểu đoàn 10 nhận nhiệm vụ tiêu diệt Chi khu Kiến Văn, với cương vị Tiểu đoàn trưởng, đồng chí trực tiếp nghiên cứu kỹ mục tiêu và lên phương án tác chiến. Ngày 25-3-1970, dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Thổ, sau 2 giờ đánh chiếm chi khu, ta giành thắng lợi, thu nhiều vũ khí, phần lớn địch hoảng loạn tháo chạy. Sau trận đánh, đồng chí bị thương nặng, tay phải bị liệt. Mặc dù bị thương không thể trực tiếp ra chiến trường chỉ huy, đồng chí vẫn cùng Ban Chỉ huy Tiểu đoàn nghiên cứu mục tiêu, lên phương án tác chiến nhiều trận đánh giành thắng lợi, tiêu biểu là trận tiến công Chi khu Mỹ An, diệt đồn Ả Rặc.
Năm 1971, đồng chí được điều về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1. Tháng 11-1971, Tiểu đoàn 1 nhận nhiệm vụ tiêu diệt cụm trinh sát của quân Lonnon. Sau khi điều nghiên mục tiêu, nhận thấy địch không phải lính thiện chiến, đóng quân ở gò cao độc lập, nhưng không có hàng rào, Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Thổ quyết định tiến công địch theo hai hướng chủ yếu và thứ yếu (hướng vu hồi đón lõng không thể vào được do đông dân cư, dễ bị lộ). Đồng chí trực tiếp chỉ huy mũi tiến công phía Nam. Sau 1 giờ chiến đấu, đơn vị của đồng chí đã tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn cụm trinh sát của địch. Sau trận đánh, đồng chí nhận lệnh của cấp trên về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 510.
Những năm từ 1972 đến 1974, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 510 chỉ huy đơn vị tham gia nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn: Tiến công yếu khu Kinh Quận (Vùng 4 Kiến Tường); diệt bốt Biện Minh, bốt Kinh Ngang; phục kích, phá tan cuộc càn vào Vùng 4 Kiến Tường của Trung đoàn 12 và Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 ngụy; đánh chiếm mục tiêu Chi khu Vĩnh Kim... Tháng 8-1973, Sư đoàn 7 ngụy sau thời gian củng cố, tiếp tục tiến công vào Vùng 4 Kiến Tường. Tiểu đoàn 510 được tăng cường các đơn vị trực thuộc, là đơn vị tiên phong trực tiếp đối mặt với Sư đoàn 7 ngụy. Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Thổ chỉ huy du kích gài mìn, đốt rơm rạ, địch sa vào bãi mìn, buộc phải dừng lại. Đồng chí tiếp tục lệnh cho đơn vị ném lựu đạn, bắn B41 vào máy bay địch. Bị tổn thất nặng, Trung đoàn 12 ngụy phải di chuyển sang hướng khác, tạm ngưng tiến công ta. Tháng 9-1973, địch sử dụng toàn bộ binh lực Sư đoàn 7 và Liên đoàn bảo an từ Sa Đéc về, quyết mở cuộc hành quân lấn chiếm toàn bộ Vùng 4 Kiến Tường. Tiểu đoàn 510 dưới sự chỉ huy của đồng chí Trần Ngọc Thổ tiếp tục đánh địch các trận nhỏ lẻ, nhằm kìm chân một bộ phận quan trọng của Sư đoàn 7.
Sang năm 1974, địch quay lại lấn chiếm và làm chủ cả Vùng 4 Kiến Tường. Từ tháng 3-1974, Trung đoàn 88 thực hiện đánh địch, giành lại Vùng 4. Tiểu đoàn 510 được giao nhiệm vụ giải phóng tuyến kênh Nguyễn Văn Tiếp A. Từ kinh nghiệm chiến đấu với Sư đoàn 7 ngụy, Tiểu đoàn trưởng Trần Ngọc Thổ sử dụng Đại đội 10 và du kích luân phiên vây đồn, diệt địch. Các đại đội 9, 11, 12, 16, 17, 18 làm nhiệm vụ cơ động đánh chặn lực lượng đến ứng cứu. Không đánh được ban ngày, địch chuyển sang hành quân ban đêm, đụng phải lực lượng phục kích của ta, chúng buộc phải rút quân. Từ tháng 5-1974, Trung đoàn 88 (có sự tham gia của Tiểu đoàn 510) và Trung đoàn 320 đồng loạt tiến công các đồn bốt địch trên khắp địa bàn.
Tháng 9-1974, toàn bộ Vùng 4 Kiến Tường và kênh Ba Gò Tháp (Đồng Tháp Mười) được giải phóng, đồng chí Trần Ngọc Thổ được điều về làm Trưởng ban Tác chiến Trung đoàn 88 Miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn nghiên cứu chiến trường, lên phương án tác chiến, tiến công Chi khu Tân Trụ, tiêu diệt đồn Cầu Ông Thìn, đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát, kho quân vụ số 18 và kho xăng Nhà Bè, cùng quân và dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày miền Nam giải phóng, tháng 7-1975, đồng chí nhận nhiệm vụ Tham mưu phó Trung đoàn 88. Từ tháng 6-1977 đến tháng 2-1978, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Trung đoàn phó - Tham mưu trưởng Trung đoàn 201, Quân khu 7. Đồng chí cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn chỉ huy đơn vị phối hợp với các lực lượng (Tiểu đoàn 14 Tây Ninh; Tiểu đoàn 2, Sư đoàn 316; Tiểu đoàn 105, Lữ đoàn pháo binh 75; Tiểu đoàn 26 tăng - thiết giáp; hơn 300 dân quân du kích huyện Châu Thành) tiến công quân Khơme Đỏ dọc tuyến biên giới Đông Nam Bộ, tiêu diệt 4 tiểu đoàn Pôn Pốt.
Tháng 8-1978, đồng chí được cử đi học tại Học viện Lục quân. Kết thúc khóa học, tháng 4-1979, đồng chí được điều ra miền Bắc tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Với cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 756, Sư đoàn 301, Quân khu Thủ đô, đồng chí chỉ huy đơn vị tham gia xây dựng tuyến phòng thủ phía Bắc sông Như Nguyệt (trên địa bàn hai huyện Yên Dũng, Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) bảo vệ Thủ đô Hà Nội.
Đầu năm 1980, đồng chí trở lại Quân khu 7, nhận nhiệm vụ Chuyên gia Đoàn 478, Bộ Quốc phòng. Từ tháng 8-1980 đến năm 1986, đồng chí là Trợ lý Tác chiến Bộ Tham mưu, Quân khu 7. Tháng 8-1986, đồng chí được cử đi học tại Học viện Quốc phòng. Hoàn thành khóa học, tháng 8-1988, đồng chí tiếp tục về nhận nhiệm vụ Trợ lý Tác chiến Bộ Tham mưu, Quân khu 7. Những năm từ 1989 đến 1998, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Phó Trưởng phòng, Trưởng phòng Tác chiến, Bộ Tham mưu Quân khu 7. Tháng 6-1998, đồng chí được bổ nhiệm Phó Tham mưu trưởng Quân khu 7. Từ năm 1999 đến năm 2004, đồng chí là Hiệu trưởng Trường Quân sự Quân khu 7. Nhận nhiệm vụ trong điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường xuống cấp nghiêm trọng, đội ngũ giáo viên đa phần đã từng qua chiến trường, nhưng được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ chưa cao... Đồng chí cùng Ban Giám hiệu Nhà trường từng bước củng cố nhà trường. Các khu giảng đường, khu nhà Ban Giám hiệu, khu nhà ở của học viên được tu sửa lại khang trang, sạch sẽ. Đội ngũ giáo viên được động viên, khuyến khích học tập nâng cao trình độ, phát huy chất lượng các bài giảng, tăng cường sáng tạo mô hình học cụ trong giảng dạy, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường phát triển... Thời gian làm Hiệu trưởng, đồng chí Trần Ngọc Thổ đã lãnh đạo nhà trường phối hợp với Ban Biên soạn hoàn thành cuốn “Lịch sử Trường Quân sự Quân khu 7 (1945-2000)” đúng dịp kỉ niệm 55 năm thành lập trường. Đây là công trình rất có ý nghĩa đối với ngôi trường có bề dày truyền thống lịch sử.
Năm 2004, đồng chí được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Quân khu 7 và được thăng quân hàm Thiếu tướng (12-2004). Những năm từ 2004 đến 2007, Tham mưu trưởng Trần Ngọc Thổ trực tiếp kiểm tra kế hoạch tác chiến, chiến dịch của từng khu vực trên địa bàn Quân khu, cùng Bộ Tham mưu soạn thảo Kế hoạch tác chiến, Quyết tâm phòng thủ, tham gia diễn tập phòng thủ chiến lược phía Nam (MN-04) thành công. Đồng chí cũng tích cực tham gia các cuộc Hội thảo khoa học, là Chủ nhiệm nhiều đề tài khoa học quân sự và viết hàng trăm bài đăng trên các báo, tạp chí, tạo được ấn tượng tốt trong cán bộ, chiến sĩ Quân khu. Năm 2007, đồng chí được nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi nghỉ hưu, đồng chí vẫn tiếp tục tham gia nhiều hoạt động ở địa phương, là Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Thành phố Hồ Chí Minh…
Hơn 40 năm gắn bó trong Quân đội, có mặt ở những chiến trường gian khổ, ác liệt, đồng chí Trần Ngọc Thổ đã tham gia hàng trăm trận đánh ở chiến trường Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, biên giới Tây Nam, cho đến chiến trường Campuchia. Dù ở cương vị nào trong chiến tranh hay xây dựng hòa bình, đồng chí Trần Ngọc Thổ luôn giữ vững là người chiến sĩ cách mạng có lập trường chính trị, tư tưởng kiên định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có trách nhiệm cao trong công việc và đạt hiệu quả. Trải qua nhiều năm tháng cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, tham gia chiến đấu giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất; Huân chương Hữu nghị Việt Nam - Campuchia; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.