Suốt hơn 113 năm tồn tại (từ năm 1862 đến 1975), hệ thống nhà tù Côn Đảo được thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ biến thành “địa ngục trần gian”. Hàng chục nghìn chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước đã bị bắt giam, tra tấn dã man nơi đây. Những cái tên như chuồng cọp Pháp, chuồng cọp Mỹ, phòng tối, hầm xay lúa... đã trở thành minh chứng sống động cho tội ác và đồng thời khắc ghi ý chí sắt đá, tinh thần bất khuất của những con người mang trong tim lý tưởng cách mạng.
Nghĩa trang Hàng Dương nơi yên nghỉ của hàng nghìn anh hùng liệt sĩ, chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước đã ngã xuống tại Côn Đảo là điểm đến linh thiêng, biểu tượng bất diệt của lòng yêu nước và tinh thần kiên trung.

Cán bộ, chiến sĩ Ban Chỉ huy Phòng thủ khu vực 6 - Đặc khu Côn Đảo, Bộ Tư lệnh TP Hồ Chí Minh vệ sinh mộ liệt sĩ.

Liệt sĩ Lê Hồng Phong (1902–1942) là một trong những lãnh đạo tiêu biểu của Đảng ta. Ông từng giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935, có nhiều đóng góp quan trọng trong việc củng cố tổ chức Đảng và thúc đẩy phong trào cách mạng. Năm 1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. Dù trong ngục tù khắc nghiệt, ông vẫn kiên cường đấu tranh. Ngày 6/9/1942, đồng chí hy sinh tại Nhà tù Côn Đảo, trở thành tấm gương sáng ngời về tinh thần cách mạng kiên trung.

Phần mộ liệt sĩ Vũ Văn Hiếu.

Phần mộ nhà yêu nước Nguyễn An Ninh.

Có diện tích rộng 190.000m2 với bốn khu, bao gồm khu A, khu B, khu C và khu D, nghĩa trang là nơi an nghỉ của các tù nhân trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Tại nghĩa trang này vẫn còn đó hàng ngàn nấm mộ vô danh như một minh chứng rõ ràng nhất về sự khốc liệt của chiến tranh và ý chí kiên cường của cha ông.

Một phần mộ tập thể tại nghĩa trang Hàng Dương.

Nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo hiện có gần 2.000 phần mộ, trong đó chỉ hơn 700 ngôi mộ xác định được danh tính. Theo ước tính, đã có khoảng 20.000 chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước hy sinh tại nhà tù Côn Đảo trong suốt hơn một thế kỷ tồn tại.

Mỗi nấm mộ, mỗi hàng cây nơi đây là chứng tích bi tráng về một thời máu lửa, và cũng là biểu tượng bất tử của lòng yêu nước.

Năm 1930, Thực dân Pháp bắt tù nhân xây dựng cầu Ma Thiên Lãnh xuyên qua núi Chúa. Công trình dang dở này có khoảng 356 người đã hy sinh trong quá trình thi công do kiệt sức, đói khát, điều kiện khắc nghiệt, đá rơi hoặc cây đè...

Gần Bãi Nhát hướng về cảng Bến Đầm, có bia di tích nơi ghi dấu cuộc vượt ngục của 198 người vào năm 1952. Cuộc vượt ngục đã không thành công, 117 người bị địch bắt lại và 81 người hy sinh trên biển.

Di tích lịch sử Nghĩa trang Hàng Keo, nằm trên đường Nguyễn Văn Cừ, là một trong hai nghĩa trang nổi tiếng nhất tại Côn Đảo. Được thực dân Pháp thiết lập trên khuôn viên rộng khoảng 97.000 m², nơi đây từng là điểm chôn cất hơn 10.000 tù nhân chính trị yêu nước từ đầu thế kỷ XX đến giai đoạn khủng bố trắng 1940–1941...Các phần mộ tìm thấy được di dời về nghĩa trang Hàng Dương.

Một phần mộ tập thể chiến sĩ yêu nước hy sinh vào năm 1952 được đặt trên đường hướng về sân bay Cỏ Ống.

Di tích nhà tù trên hòn Cau, nơi từng giam giữ cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đồng bào yêu nước vào năm 1930.

Cầu tàu 914, nơi ghi dấu sự hy sinh của 914 người trong quá trình xây dựng, là chứng tích đau thương về chế độ lao tù khắc nghiệt tại Côn Đảo.

Cầu vòng xuất hiện tại gần cầu tàu 914 những ngày tháng 7 năm 2025.